Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

LANH DAO CONG SAN THANH TRUNG LAN NHAU

NHỮNG BẠO CHÚA BỊ ÐÀN EM GIẾT VÀO LÚC CUỐI ÐỜI
Bạo chúa là những kẻ lúc cầm quyền đã giết quá nhiều người. Có bạo chúa ngày xưa chết già nhưng vì chết trên đường đi nên khi đem về triều đình để an táng thì thân thể cũng đã sình thối trước khi đem chôn. Ðó là trường hợp của bạo chúa Tần thủy Hoàng. Riêng hai bạo chúa tân thời Pol Pot của xứ Kampuchia và bạo chúa Hồ chí Minh của Việt nam đều do đàn em giết chết. Do những nhân chứng tiết lộ và do sự suy luận của những chuyên viên am tường về chính trị, dần dà cái chết của hai bạo chúa Pol Pot và Hồ chí Minh được mang ra ánh sáng. Cả hai đều chết một cách đau đớn thảm khốc như hàng triệu nạn nhân do hai ông gây nên. Âu đó là định luật nhận quả. Giết người để rồi bị người giết. Nhìn lại cái chết của hai bạo chúa này để thấy cái nghiệp báo đeo đẳng vào kiếp người. Ðừng nghĩ là khi đừng ở vai trò lãnh đạo muốn giết ai thì giết, để rồi đến phiên mình bị đàn em thanh toán bằng những phương cách tàn bạo dã man nhất để kết liễu mạng sống lúc cuối đời.
Cách đây chừng một tuần, một bài báo của các bác sĩ Việt nam trong nước gây chấn động khắp nơi trong và ngoài nước. Bài báo nhan đề “Một nghiên cứu khoa học về Hồ chí Minh“ ( Có thể vào www.nsvietnam.com rồi bấm vào hàng chữ: nsvietnamonline để đọc bài báo này). Các bác sĩ ở Hà Nội đã đựa vào những kiến thức chuyên môn y khoa để khẳng định Hồ chí Minh chết vì bị đầu độc chứ không chết vì bệnh hoạn hay già nua như nhà nước Cộng sản đã công bố trong mấy mươi năm qua. Thường thường khi muốn giết một người và tránh sự nghi ngờ, Cộng sản thường loan tin người đó bị bệnh “ nhồi máu cơ tim” hay “ tai biến mạch máu não “!
Trường hợp của Hồ chí Minh thì khi Bộ chính trị, nói cụ thể là Lê Duẩn, muốn giết Hồ chí Minh bằng con đường đầu độc thông qua các bác sĩ trị liệu và gán cho Hồ chí Minh chết vì bệnh “ nhồi máu cơ tim”. Kịch bản giết Hồ chí Minh dù khéo léo đến đâu rồi cũng có ngày phơi bày ra ánh sáng vì những sự vô lý, sơ hở, hớ hênh trong diễn tiến sự việc mà Bộ chính trị vô tình để lộ qua sự trình bày của báo chí và phim ảnh .
Hãy nghe các bác sĩ ở Hà Nội ( ttbsvn@gmail.com ) trình bày diễn tiến đầu độc Hồ chí Minh bằng chất độc như sau trong bài viết:
Người ta đã dùng thuốc gì để giết Bác ?
Việc này đối với những kẻ có kiến thức và có dã tâm thì rất dễ dàng: Bác sĩ tim mạch biết rất rõ tất cả các loại thuốc điều trị rối loạn nhịp tim, thì đều có thể làm loạn nhịp tim. ( Nói dể hiểu là nếu tim loạn nhịp mà dùng đúng liều thì sẽ hết loạn nhịp, còn dùng không đúng liều thì sẽ loạn nhịp nặng hơn. Nếu tim bình thường mà dùng những thuốc này thì sẽ sinh ra,,loạn nhịp, dùngliều cao thì sẽ tử vong). Vì vậy những kẻ này có thể làm cho nạn nhân thấy mệt bất cứ lúc nào chúng muốn và khi giờ G đã đến thì tăng liều thế là xong. ( Ðối với thuốc tim mạch thì chỉ cần dùng liều gấp đôi là cũng có thể tử vong rồi, vì liều dùng trong tim mạch đòi hỏi thật chính xác).
…..Những ngày trước đó người ta dùng kháng sinh Ta-tô-pen cho Bác( Bác bị viêm phế quản). Bệnh của Bác đang đỡ dần sao tự nhiên lại đòi kháng sinh? Mà lại là loại kháng sinh có “ tiền án hình sự “ gây sốc.
Vấn đề là người ta muốn đổ tội cho cái thứ kháng sinh này thôi, và cũng lưu ý là không phải lúc nào nó cũng gây sốc. Thực chất ống Pê-lê-xi-lin đã được thay ruột bằng thuốc chống loạn nhịp tim như đã nói trên.
Ngay như cuốn sổ tay của Võ nguyên Giáp cũng bắt đầu từ ngày 24/8/1969, là ngày khởi sự của tội ác.
Trong cuốn sổ tay, Ðại tướng Võ nguyên Giáp có ghi rõ từng ngày: 24-8 trở đi, Bác mệt nặng. 26-8: Khi vào thăm, giơ tay chào, Bác chào lại rồi bảo, “ Chú về nghỉ ..” Hàng ngày Bác vẫn hỏi, “ Hôm này miền Nam đánh thắng đâu?”
http://www.tapchicongnghiep.vn/sodau..7/9/17077.ttvn
Ðây cũng là một sự chuẩn bị của Bộ chính trị, bao nhiêu ngày không viết nhật ký vào thăm Bác, nay lại bày đặt ghi nhật ký, vì muốn nhấn mạnh ý Bác chết là do bệnh nặng mà thôi, và cũng là cách phòng tránh sự nghi ngờ của mọi người, ( Nhật ký này cũng được làm 9 ngày trước khi Bác chết.)
Tội nghiệp cho ông Vũ Kỳ và các nhân chứng. Các bác sĩ bảo sao thì nghe vậy:
“ Trong quá trình chữa bệnh, có một điều đặc biệt là cơn đau tim đến dồn dập liên tiếp nhưng Bác không rên. Bác nằm yên và nhắm mắt…”
Bác nằm yên thì làm sao ông Vũ Kỳ biết là cơn đau đến dồn dập ???Ở đây chúng tôi thấy ông Vũ Kỳ cũng hiểu ra chuyện. Hình như ông muốn nói điều gì đó nhưng không thể ! Ông đã để lại một chìa khóa quan trọng để lật mặt đảng CSVN
Một nguyên tắc nữa trong điều trị nhồi máu cơ tim là bệnh nhân phải nằm nghỉ tuyệt đối, nhất là khi bệnh nặng, thậm chí việc đi cầu, đi tiểu cũng phải làm tại giường mà phải dùng loại bô nằm, hoặc là lót giấy cho bệnh nhân, bệnh nhân không được ngồi dậy, và bệnh nhân nặng thì tuyệt đối không được ăn, các bác sĩ sẽ nuôi ăn qua đường tĩnh mạch, đơn giản nhất là truyền glucose ( đường). Ðúng là người ta muốn giết Bác rồi.
Cần phải nói rõ ở đây kẻ chủ mưu giết Hồ chí Minh chính là Lê Duẩn. Có thể có sự toa rập của Lê đức Thọ, vốn cũng có ác cảm với Hồ. Còn Trường Chinh, Phạm văn Ðồng và Võ nguyên Giáp hoàn toàn không có liên can gì đến chuyện đầu độc giết Hồ.
Câu hỏi đặt ra ở đây là Hồ có biết được âm mưu đầu độc Hồ hay không? Câu trả lời là có. Xin chứng minh cụ thể như sau
Ngay từ năm 2003, tôi có viết hai bài “ Bí ẩn chung quanh chuyện Hồ chí Minh bị thất sũng lúc cuối đời “ và “ Một cách lý giải về chuyện Hồ chí Minh bị mất quyền lực trong những năm cuối đời “ ( Ðộc giả có thể vào www.nsvietnam.com rồi bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng để đọc hai bài này). Trong hai bài này tôi có nêu rõ chuyện Lê đức Thọ ăn hiếp tàn tệ Hồ chí minh trong một buổi họp và có đưa ra di chúc thống thiết Hồ chí Minh viết ngày 14 tháng 8 năm 1969. Tôi có kể thêm chuyện Lê Duẩn, Lê đức Thọ âm mưu giết Hồ bằng tai nạn máy bay khi Hồ cùng người hầu cận Vũ Kỳ trở về Hà Nội từ Trung Quốc năm 1968 dựa trên một bài báo của Sơn Tùng thuật lại cuộc nói chuyện của người hầu cận của Hồ chí Minh là Vũ Kỳ. Vũ Kỳ kể lại câu chuyện một cách khôn khéo để người đọc rút ra kết luận là Duẩn, Thọ âm mưu tạo dựng tai nạn máy bay để giết Hồ. Nhà văn Sơn Tùng ( một người có 10 đầu sách viết về Hồ chí Minh)cũng có nói đến âm mưu đó, nhưng không dám nói huỵch toẹt ra mà dành sự kết luận cho người nghe, người đọc. Cho dù khi Vũ Kỳ kể chuyện khi Lê Duẩn và Lê đức Thọ đã qua đời nhưng chế độ Cộng sản vẫn còn đó. Không thể nói toạc móng heo trắng trợn âm mưu giết Hồ chí Minh của Duẩn, Thọ trên báo chí Cộng sản trong nước được mà phải dùng cách kể chuyện cực kỳ khôn khéo, đưa ra những sự kiện và dành sự suy luận cho người đọc. Chiếc máy bay chở Chủ tịch nước Hồ chí Minh không liên lạc được bằng vô tuyến với sân bay bên dưới là một chuyện vô lý cùng cực. Nên nhớ là trời lúc đó không hề có giông bão nên không có lý do gì để cho vô tuyến bị trục trặc cả ! Chỉ có một cách giải thích duy nhất là bên dưới tắt máy không muốn liên lạc để phi cơ gây ra tai nạn ( lệnh tắt máy liên lạc chắc chắn đến từ Lê Duẩn ).
Không giết được Hồ bằng tai nạn phi cơ năm 1968 thì đám Duẩn, Thọ quyết định dùng thuốc độc để giết Hồ năm 1969 và ngụy tạo như là một thứ bệnh hoạn gây tử thương cho Hồ bằng một kịch bản giết người khéo léo để che mắt thế gian,, Mặc dù Duẩn, Thọ đã tước hết quyền lực của Hồ chí Minh từ lâu nhưng uy tín của Hồ trước mặt nhân dân còn quá lớn nên phải bức tử Hồ cho tiện sổ sách.
Sử gia Pháp Pierre Brocheux đã nói chuyện Hồ mất quyền lực như sau trong bài phỏng vấn với BBC vào tháng 10 năm 2003, “ Theo nghiên cứu của tôi thì cả một giai đoạn trước khi qua đời ông Hồ bị cách ly khỏi quyền lực, tức là không hề có quyền gì. Ông ấy bị biến thành một biểu tượng. Vì thế cuốn sách của tôi còn có một tựa đề nữa là “ Hồ chí minh, một nhà cách mạng biến thành một biểu tượng “. Ý tôi muốn nói ông bị người ta biến thành một biểu tượng không có quyền, một biểu tượng yếu về quyền lực,”
Nhưng dù có khéo cách mấy cũng lòi ra những hớ hênh, sơ hở để ngày hôm nay một số bác sĩ ở Hà Nội viết bài phân tích và lý luận tỉ mỉ về chuyện Hồ chí Minh đã bị đầu độc chết như thế nào căn cứ vào những nghịch lý, sơ sót nằm trong những bài viết và phim ảnh về Hồ chí Minh trong những ngày cuối đời.
Ngay trong chúc thư ngày 14 tháng 8 năm 1969, Hồ chí Minh đã tiết lộ chuyện đầu độc ông đã xảy ra, “ Tôi đã già rồi, râu tóc đã bạc mà còn phải sang trong canûh tù giam lỏng, cứ nghĩ đến điều này làm tôi ứa nước mắt. Họ đã không giết tôi nhưng sai ông Bác sĩ Tôn thất Tùng cho tôi uống thuốc độc để tôi không thể đi đâu được nữa, mà ũng không thể tiếp xúc với những người mà tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa chết ngay, nhưng là chết dần, chết mòn, ở biệt lập một nơi để đợi ngày tắt thở.”
Nếu Hồ chí Minh bị đầu độc chết thì tại sao Lê Duẩn lại để ông chết vào ngày 2 tháng 9, để rồi phải nói dối với toàn dân là ông chết ngày 3 tháng 9. Vì ngày 2 tháng 9 là ngày quốc khánh, chủ tịch nước chết coi như là quốc tang. Ngày quốc tang lại trùng vào ngày quốc khánh đã làm cho Hà Nội khó chịu nên phải công bố ông chết trễ một ngày. Trong cuốn hồi ký của Giáo sư Nguyễn đăng Mạnh đã có một cách giải thích lý thú về chuyện tại sao Hồ chí Minh lại chết vào ngày 2 tháng 9 như sau :
“ Cuối cùng là ngày sinh và ngày mất của Hồ chí Minh . Ngày sinh cũng do ông tự đặt ra, ai cũng biết rồi. Còn ngày mất? Ðúng cái ngày ông đọc Tuyên ngôn độc lập ( 2/9)
Theo Hoàng ngọc Hiến, ông Hồ chủ động chết váo cái ngày lịch sử ấy. Ông ấy đáo để lắm đấy ! Một người quyết lấy lại họ Hồ là dòng máu thật của mình (Hồ sĩ Tạo) thì cũng có thể quyết chết vào đúng ngày sinh của cả nước, ngày mà ông đọc Tuyên ngôn độc lập.
_ Nhưng chủ động chết làm sao được khi người ta luôn chầu chực quanh mình- Tôi cãi lại Hiến
_ Thì cũng có lúc người ta ra ngoài chứ. Lúc ấy chỉ cần dứt hết những dây dợ của cái ống thở oxy là chết luôn chứ sao! Hiến khẳng định thế. Một phán đoán không phải là không có lý !
Hà Nội ngày 6/7/2006)0
( Trích Hồi ký Nguyễn đăng Mạnh trang 131)
Nguyễn đăng Mạnh suy luận cho rằng ông Hồ chủ động chết vào ngày 2 tháng 9 năm 1969 vì tính khí ông Hồ đáo để. Nói như vậy là còn hụt hẫng và chưa đủ sức thuyết phục công luận. Dĩ nhiên cũng có thể ông Hồ chết vào ngày Quốc khánh là do ngẫu nhiên chứ không do ông chủ động.
Phải nhớ một điều là Lê Duẩn điều động một tập hợp một số bác sĩ và y tá đầu độc Hồ nhưng nên nhớ là bao cặp mắt đều soi mói vào con người Hồ đang nằm trên giường. Thuốc độc phải để ngấm từ từ, không thể chích một mũi thuốc độc cho Hồ chết ngay như người ta dùng ống chích thuốc độc để chấm dứt sinh mạng tử tội trong vòng vài phút như vẫn làm ở nước Mỹ. Ðám Lê Duẩn vừa tìm cách giết Hồ vừa tìm cách đóng kịch với nhân dân Việt Nam và thế giới là đang tìm đủ mọi cách để chữa cho Hồ khỏi bệnh. Và Lê Duẩn đã lừa được mọi người trong và ngoài nước trong 40 năm nay là làm cho người ta tin Hồ chết vì bệnh hoạn tuổi già.
Có thể tạm suy luận như thế này. Hồ đã nhìn và hiểu rõ âm mưu đầu độc ông chết một hai tuần trước khi ông bị bức tử. Ông chủ động chết vào ngày 2 tháng 9 là một cú chơi khăm cuối đời nhắm vào bọn người giết ông. Cú chơi khăm độc đáo này đã có kết quả là chính quyền Cộng sản phải công bố sai ngày chết của ông là ngày 3 tháng 9 thay vì 2 tháng 9. Sau này đứng trước sự thật lên tiếng của quá nhiều nhân chứng, chính quyền Cộng sàn Việt nam đành phải nhìn nhận là Hồ chí Minh chết ngày 2 tháng 9. Hồ chí Minh đã thắng trong cuộc đấu trí cuối đời với bọn đàn em đầu độc giết ông vì chúng phải lấn cấn trong chuyện tổ chức quốc tang cho ông là chủ tịch nước vào ngày quốc khánh của quốc gia !!!
Cái chết của Hồ là một cái chết đau đớn như cái chết của trăm ngàn nạn nhân trong vụ cải cách ruộng đất do ông chủ xướng. Ông gây nhân tàn bạo để rồi gặt lấy quả bạo tàn. Ông bị chính những đồng chí đàn em của ông là Lê Duẩn và Lê đức Thọ giết bằng cách đầu độc.
Sau khi liên minh Lê Duẩn và Lê đức Thọ dứt điểm đối tượng gai mắt Hồ chí Minh rồi thì sau này Lê đức Thọ gây gỗ và ra tay giết Trường Chinh vì tranh giành ngôi vị Tổng bí thư sau khi Lê Duẩn qua đời.
Nhà văn Vũ thư Hiên đã suy luận về cái chết của Trường Chinh như sau :
“ Giận dữ và hồ thẹn thấy mưu đồ chiếm ngôi vị cao nhất không thành, theo cách không ăn thì đạp đổ, Lê đức Thọ nằng nặc đòi quyền Tống bí thư Trường Chinh phải từ bỏ ý định tranh cứ, viện cớ cả hai đã cao tuổi, không nên tham gia triều chính nữa. Nếu Trường Chinh ứng cử, thất bại của Thọ sẽ không chỉ đáng buồn mà là bi kịch, Nó sẽ là mối nhục không bao giờ gột sạch của con người uy phong lẫm liệt một thời. Tuân lệnh Lê đức Thọ, Phạm văn Ðồng năm lần bảy lượt đến tận nhà Trường Chinh, có hôm từ tinh mơ, thuyết phục ông thôi không tranh cử nữa. “ Nếu anh cứ tranh cử thì sẽ nổ ra xung đột nội bộ. Ðảng ta tan nát mất “, nước mắt nước mũi giàn giụa Phạm văn Ðồng vật nài. Cuối cùng Trường Chinh đồng ý, Ông hiểu câu nói của Phạm văn Ðồng là lời nhắn gửi nghiêm túc của Lê đức Thọ. Không phải vì lo Ðảng tan nát mà Trường Chinh đồng ý, ông lo nếu không nghe lời Thọ thì chính ông sẽ tan nát. Con người như Lê đức Thọ sẵn sàng làm tất cả khi cay cú ..
( Hồi ký “ Ðêm giữa ban ngày “ của Vũ thư Hiên trang 293, 294”)
Trường Chinh sau khi rút lui khỏi cuộc đọ sức với Lê đức Thọ vào chân tổng bí thư, buồn bã ngồi nhà. Ông qua đời vì chấn thương não trong một cú ngã ở cầu thang. Có tin ông bị Lê đức Thọ sai tên bảo vệ ông, người cuả Trần quốc Hoàn, hạ sát. Tên này lẽ ra phải đi sát ông từng bước, nhưng đã để ông ngã khi có một mình, Vết thương ở gáy có thể do mép bậc thang gây ra, mà cũng có thể do một vật bằng gỗ khác đập vào.
( Hồi ký “ Ðêm giữa ban ngày “ của Vũ thư Hiên trang 761)
Phải nhận thấy Vũ thư Hiên đưa ra một nhận định khá táo bạo khi suy luận rằng Lê đức Thọ cho người đến giết Trường Chinh, nhưng không phải là không có lý.
Trong một cuốn sách của Bùi Tín có để một tấm hinh chụp của Trường Chinh đến thăm đám nhà báo Bùi Tín . Trong ảnh Trường Chinh tươi cười khỏe khoắn. Bùi Tín ghi chú là 2 ngày sau khi chụp tấm ảnh này, Trường Chinh qua đời. Lý do qua đời đột ngột lại càng cho thấy Trường Chinh chết bất đắc kỳ tử chứ không chết vì già yếu bệnh hoạn. Vì chết vì lý do bệnh hoạn thì thời gian đau yếu kéo dài vài tuần đến vài tháng chứ không chết đột ngột như thế. Nói như thế để thấy lập luận của Vũ thư Hiên cho rằng Trường Chinh bị Lê đức Thọ sai người đập chết bằng gậy có nhiều yếu tố để trở thành sự thật chứ không phải chuyện suy đoán viễn vông, không bằng cớ.
Trường Chinh cũng là người có bàn tay nhuốm máu nạn nhân cải cách ruộng đất vì lúc ấy Trường Chinh là Tổng bí thư nên cái chết bất đắc kỳ tử thàm khốc của Trường Chinh cũng nói lên được luật nhân quả vay trả của trời đất.
Lê Duẩn là người hành hạ Hồ chí Minh đau đớn khổ sở lúc cuối đời thì vào những tháng năm cuối của đời mình, Lê Duẩn bị Lê đức Thọ làm tình, làm tội đủ điều khổ sở, bực bội.
Hãy đọc đoạn hồi ký sau của Ðoàn duy Thành, nguyên bí thư thành phố Hải phòng và là người thân tín của Lê Duẩn kể lại để thấy Lê Duẩn mệt mỏi vì bị Lê đức Thọ quấy rầy. Thọ muốn Duẩn viết di chúc nhường ngôi Tổng bí thư cho Thọ sau khi Duẩn qua đời. Có lẽ vì không thích Thọ nên Duẩn từ chối làm chuyện đó và điều này làm cho Thọ tức giận đến quấy phá Duẩn ngay tại nhà riêng của Duẩn.
Ðoàn duy Thành kể rõ như sau:
“ Ra đến Hà Nội được 2, 3 ngày thì anh Ba mất. Tôi chạy lại gia đình anh. Chị và các cháu xúm lại hỏi tôi đi đâu mấy tháng. “ Lúc anh Ba yếu nặng sao không lại?” Tôi nói vì chuyến đi công tác ở miền Nam nên thất lễ với anh Ba trong những ngày cuối cùng. Cả nhà anh Ba lo lắng, nhất là mấy cháu gái Cừ, Muội, Hồng, các con rễ Lê bá Tôn, Hồ ngọc Ðại. Nói là cháu, nhưng các cháu nhỏ chỉ kém tôi 5, 7 tuổi. Tất cả xúm lại hỏi tôi và lo lắng:
Ba cháu mất rồi..liệu họ có giết gia đình nhà cháu không?
Tôi nói:
Tại sao các cháu lại có ý nghĩ lạ như vậy? Ba cháu là con người vĩ đại, một người hiền triết mới kế nghiệp cụ Hồ, giải phóng miền Nam. Không có Ba, làm sao giải phóng được miền Nam, thống nhất được đất nước, không để xảy ra tắm máu ? Ai dám hại gia đình nhà mình? Ðừng nghĩ linh tinh. Ðảng mình là đảng vĩ đại, nhân dân yêu quý Ba. Các cháu sao lại nghĩ vớ vẩn như vậy? Các cháu yên tâm, chú nghĩ không bao giờ có chuyện đó. Còn bao nhiêu người có mặt.. ai dám làm bậy?
Bấy giờ các cháu mới yên tâm, Hồ ngọc Ðại nói chen vào ;
“ – Còn bao nhiêu các chú.. Họ chẳng dám làm bậy đâu!
Sau đó, tôi mới tìm hiểu, tại sao có chuyện hoảng loạn tại gia đình anh Ba như vậy khi anh qua đời. Ðó là những người có dụng ý chia rẽ, nói phe cánh anh Lê đức Thọ, Trần xuân Bách định ám hại gia đình anh Ba. Tôi nghĩ không bao giờ có thể như thế được. Ðảng ta được Bác Hồ xây dựng và lãnh đạo đội ngũ cốt cán cách mạng, đã làm nên bao kỳ tích, không thể có những hành động “ đồi bại “ như thế được. Mấy ngày đó tôi thường xuyên lại nhà anh Ba để ổn định tư tưởng cho các cháu, nhất là cháu Cừ, vợ đồng chí Lê bá Tôn là người lo lắng nhất.
Tôi cũng chỉ mới biết có sự bất hòa giữa anh Ba và anh Lê đức Thọ cách đấy khoảng 4, 5 tháng. Vì tôi ít quan tâm, tôi tin các anh đã có quá trình rèn luyện, lại là người gần gũi Bác Hồ, chắc chắn các anh luôn luôn đoàn kết bên nhau để thực hiện và xây dựng sự nghiệp Bác để lại.
Khoảng tháng 5/1986 tôi đến thăm anh Ba ở Hồ Tây, gần đến khu biệt thự, tôi gặp xe anh Thọ đi ra. Tôi vào thăm anh Ba, có anh Bùi San ở đó. Thấy tôi đến anh Bùi San chào anh Ba ra về. Tôi bắt tay anh Bùi San và vào thăm anh Ba. Anh Ba tỏ vẻ hơi bực tức nói:
_ Ðấy, nó đấy, tôi vừa đuổi nó ra rồi..
Tôi suy nghĩ mãi mới biết là xe anh Thọ vừa ra.. Tôi không nói gì, chỉ thăm sức khỏe anh, nói tóm tắt một vài việc lớn của Hải Phòng để báo cáo với anh, vì lúc này tôi thấy anh Ba mệt nhiều. Tôi muốn để anh nghỉ ngơi nên xin phép ra về, Nhưng anh Ba bảo tôi ngồi lại nói chuyện rồi anh nói:
_ Mấy anh lại đây bảo tôi viết di chúc. Tôi nói không cần. Việc viết di chúc chỉ dành riêng cho Bác. Còn tôi, tôi nghĩ trung ương các đồng chí đã trưởng thành cả rồi, viết di chúc chỉ gây khó khăn cho các đồng chí . Mình nói thế này, nhưng khi trung ương báo lại khác, sinh ra phức tạp, mất đoàn kết. Các đồng ký viết di chúc sẵn bảo tôi ký, tôi không ký
Rồi anh bảo tôi:
_ Tôi đã bàn với một số đồng chí Bộ chính trị, kỳ đại hội này đưa anh Linh hoặc anh Võ chí Công thay tôi làm cả khóa hoặc nửa khóa rồi để đồng chí Thành làm. Còn anh Tố Hữu sau vụ đổi tiền không còn khả năng làm Tổng bí thư..
Tôi đợi anh Ba nói hết và suy nghĩ. Những lần trước khi về thăm Hải Phòng hoặc anh gọi tôi lên nhà chơi, anh Ba có nhắc vấn đề nào, tôi đều nói :
_ Nước ta còn ảnh hưởng lễ giáo phương đông, lớp trẻ không thể qua mặt các đồng chí lão thành đi trước mình hàng thập kỷ…..
Anh Ba ngắt lời tôi, mỉm cười và nói:
Tôi đã bàn vơiù một số đồng chí bộ chính trị về đồng chí Thành thì các đồng chí đồng ý..
Lúc đó anh mệt, tôi không dám nói dài với anh, chỉ nói gọn:
_ Rất cảm ơn anh, nhưng theo tôi nghĩ thì rất khó..
Anh lại vui vẻ đứng day, vỗ vai tôi và nói, “ Cứ làm việc cho tốt “ Tôi chào anh ra về, chỉ nghĩ nhiều về bệnh tật của anh, và cũng hơi buồn vì trong các anh đã có sự rạn nứt.. sẽ gây ảnh hưởng xấu đến đoàn kết nội bộ của Ðảng.
Sau lễ tang Tồng bí thư Lê Duẩn, tôi làm việc ở Bộ ít ngày, lại tiếp tục đi nắm tình hình các tỉnh, thành phố phía Bắc. Trong lúc đó tình hình chuẩn bị Ðại Hội 6 khẩn trương. Ðồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng bí thư, Ðồng chí Nguyễn văn Linh được bổ sung vào Bộ chính trị và Thường trực Ban bí thư, cùng chuẩn bị Ðại hội Ðảng, chủ yếu là về văn kiện Ðại hội, còn chuẩn bị tổ chức cán bộ do anh Lê đức Thọ phụ trách.”
( Trích hồi ký “ Làm người là khó “ của Ðoàn duy Thành trang 148-149)
Nói chung Bộ chính trị Ðảng Cộng sản Việt Nam toàn những tên vô học từ Hồ chí Minh đến Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê dức Thọ. Chỉ trừ Võ nguyễn Giáp là tương đối có chút học vấn còn đa số là vô học, vô giáo dục. Bởi vô học nên chúng đối xử với nhau thô bạo, thô bỉ, tàn bạo với nhau như những tên du côn, du đãng, du thủ du thực đầu đường xó chợ. Chúng không có cách xử sự quân tử, rộng lượng, cao thượng như người có học thường có. Chúng gian trá khi đề ra những chính sách bịp bợm để cai trị nhân dân và dùng mọi thủ đoạn độc ác, tàn bạo để đối xử với nhau một cách không nhân nhượng. Chính con cáo già Hồ chí Minh đã dạy dỗ, rèn luyện cách cư xử bất cận nhân tình, tráo trở, lật lọng cho đàn em, học trò như thế để rồi chính Hồ chí Minh trở thành nạn nhân của đường lối bá đạo do ông đề ra. Bởi vậy mới có tình trạng hai tên đàn em Lê Duẩn và Lê đức Thọ vô học, vô hạnh phối hợp nhau đầu độc Hồ chí Minh cho chết. Rồi sau đó Lê đức Thọ tranh giành quyền hành nên gây gổ kịch liệt với Lê Duẩn khi Lê Duẩn đau ốm cuối đời và đến chuyện Thọ sai người đi giết Trường Chinh vì ghen tức, cay cú khi không giành được chức Tổng bí thư sau khi Lê Duẩn qua đời như nhà văn Vũ thư Hiên đã ghi nhận. Hồi ký Ðoàn duy Thành cho biết con Lê Duẩn e ngại sẽ bị phe Lê đức Thọ giết sau khi Lê Duẩn qua đời đã cho thấy mâu thuẫn giữa Lê Duẩn và Lê đức Thọ gay gắt, trầm trọng như thế nào.
Hồi ký “ Giọt nước trong biển cả “ của Hoàng văn Hoan còn cho biết chính Lê Duẩn là người đã giết Ðại tướng Nguyễn chí Thanh khi Thanh từ miền Nam ra Hà Nội họp. Có lẽ Duẩn bất bình gì đó với Nguyễn chí Thanh nên quyết định dứt điểm Nguyễn chí Thanh. Báo chí Hà nội thì loan tin Thanh bị bệnh cảm lạnh,’ nhồi máu cơ tim’ mà qua đời. Lại cái trò bị bệnh “ nhồi máu cơ tim” qua đời như Hồ chí Minh !
Riêng Lê đức Thọ thì cuối đời bị bệnh ung thư. Khi qua Pháp vào viện ung thư chữa trị, có lần gặp cựu Trung tướng V.N.C.H Trần văn Ðôn cũng vào đó chữa trị. Khi qua đời Lê đức Thọ được chôn ở nghĩa trang Mai Dịch vốn được dành cho các quan chức cộng sản.. Mộ của Lê đức Thọ thường bị ném phân lên nên gia đình Thọ phải dời mộ Thọ về quê chôn cất. Có lẽ vì lức sinh tiền Lê đức Thọ gây quá nhiều thù oán, chết chóc nên khi chết rồi bị trả thù bằng phân ném lên mộ Thọ. Ðúng là chết rồi mà cũng chưa được an thân!
Thọ và Duẩn đều là những học trò ruột của Hồ chí Minh. Thọ và Duẩn đều học cái gian manh, tàn bạo, dối trá, lừa thầy phản bạn của Hồ chí Minh để thành một thứ gian hùng như Hồ chí Minh. Cuối cùng là Thọ và Duẩn liên minh nhau để giết người thầy Hồ chí Minh khi thấy ông là vật cản trở trên con đường phát huy quyền lực của chúng. Ðạo lý tối cao của Ðảng Cộng sản Việt Nam là lừa thầy phản bạn, là cứu cánh biện minh cho phương tiện, là sự độc ác vô cùng tận vượt ra khỏi sự tưởng tượng và đạo lý của con người.
Nhìn qua xứ Kamphuchia thì thủ lãnh Khmer đỏ là bạo chúa Pol Pot cũng chịu một số phận tương tự như bạo chúa Hồ chí Minh. Pol Pot chiếm thủ đô Nam Vang vào giữa tháng 4 năm 1975, khoảng 2 tuần trước khi Sài gòn sup đổ. Pol Pot chủ trương xây đựng một chế độ Cộng sản hoang tưởng và quái đản bằng chủ trương không dùng đến tiền tệ, trường học. Trong những năm cai trị ( 1975-1978) Pol Pot giết khoảng trên 1 triệu rưỡi người Miên. Có người bị giết chỉ vì đeo kính trắng và như thế là thuộc giai cấp trí thức cần phải tiêu diệt. Thật là độc ác và quái đản chưa từng thấy trong xã hội loài người. Bọn lính Khmer đỏ thường dùng cán cuốc đập vỡ sọ nạn nhân. Ðừng quên quan thầy chỉ đạo tối cao của Pol Pot là tên mập Mao trạch Ðông và tên lùn Ðặng tiểu Bình của Trung Cộng.
Ngày 25 tháng 12 năm 1978., Cộng sản Việt Nam đổ 100000 ngàn quân qua Kampuchia lật đổ chế độ Pol Pot. Người chỉ huy chiến dịch này là Lê đức Thọ và đàn em Lê đức Anh. Pol Pot phải rút vào rừng chiến đấu theo kiểu du kích chống bộ đội Cộng sản Việt Nam. Năm 1979 Trung Cộng đem quân qua biên giới trả thù cho đàn em Pol Pot, dạy cho Việt Nam một bài học vì Việt Nam đã đem quân lật đổ chế độ Pol Pot vốn là đàn em thân thiết của Trung Cộng.
Khoảng đầu năm 1998, quốc tế phát hiện ra Pol Pot có mặt ở mật khu kháng chiến Anlong Veng nằm gần biên giới Thái Lan. Dư luận quốc tế ồn ào đòi mang tên bạo chúa Pol Pot ra xử về tội diệt chủng. Những tháng cuối đời Pol Pot bị đàn em là Ta Mok tước hết quyền hành vì cho Pol Pot giết quá nhiều dân Miên trong khi cầm quyền nên dân Miên oán hận, không còn ủng hộ phe Khmer đỏ như ngày xưa nữa. Khi đàn em Pol Pot thầy viễn cảnh phải giải giao Pol Pot cho tòa án quốc tế xử thì chúng ra tay giết Pol Pot ngay vì sợ khi Pol Pot ra tòa sẽ khai tội ác của chúng. Khi bọn đàn em Khmer loan báo Pol Pot “ chết vì bệnh tim “ ngày 15 tháng 4 năm 1998, dư luận quốc tế trong đó có cựu cố vấn an ninh quốc gia Mỹ là Henry Kissinger đưa ra nhận định ngay là Pol Pot bị đàn em giết chết. Ðó là một nhận định hợp lý và chính xác. Có thể chúng giết Pol Pot bằng cách chụp bao ny-lông vào đầu cho ngạt thở đến chết hay cho tiêm thuốc độc. Pol Pot chết được 2 ngày thì chúng cho thiêu xác Pol Pot để phi tang mọi đấu tích giết Pol Pot và chúng không cho bất cứ phái đoàn y khoa quốc tế nào được khám nghiệm tử thi Pol Pot trước khi hỏa táng. Pol Pot thọ 73 tuổi.
Di sản Pol Pot để lại cho quốc gia Kampuchia là hàng núi xương sọ của những nạn nhân do phe Khmer đỏ giết trong những năm cầm quyền ( 1975-1978). Thật là tàn bạo khủng khiếp không thể tưởng tượng.
Bạo chúa Pol Pot đã phải chết một cái chết thảm đau đớn như hàng triệu nạn nhân của ông ta theo đúng quy luật trả vay của trời đất.
Bạo chúa Pol Pot cũng như bạo chúa Hồ chí Minh đều phải chết một cái chết thảm do đàn em của chúng ra tay khi bọn đàn em cảm thấy sự sống của hai bạo chúa này không còn có lợi cho quyền lực chính trị của chúng.
Ðạo lý nhân quả của nhà Phật qua bao nhiêu năm đã trở thành đạo lý hành xử của người Việt Nam qua những câu ca dao, tục ngữ quen thuộc đi vào quần chúng như “ Cây xanh thì lá cũng xanh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con” và “ Ðời cha ăn mặn,đời con khát nước “. Ngay cuốn truyện thơ nổi tiếng nhất Việt Nam là Truyện Kiều cũng được xây dựng trên động lực của thuyết nhân quả theo sự nhận xét của Học giả Trần trọng Kim. Cứ nhìn hai bạo chúa Hồ chí Minh và Pol Pot bị đàn em thanh toán một cách tàn bạo thì người ta càng thấy sự chính xác của đạo lý nhân quả nhiều hơn nữa.
Ở hiền gặp lành và gieo gió, gặt bão nên trở thành một loại châm ngôn không những ứng dụng cho người dân thường trong xã hội mà còn ảnh hưởng đến tầng lớp lãnh đạo nữa. Nếu người lãnh đạo nào nắm vững nguyên lý nhân quả của nhà Phật để trị nước an dân thì quốc gia sẽ bớt nhiều tội ác và dân chúng được hưởng thanh bình nhiều hơn.
Một mùa xuân an lành sẽ đến với quê hương dân tộc nếu mọi người dân cũng như cấp lãnh đạo biết làm lành lánh dữ, gieo trồng nhân thiện và từ bỏ làm chuyện ác. Chủ thuyết Cộng sản là một thứ tà ma quỷ dữ do bọn Tây phương đem vào Việt Nam và đã gây biết bao tội ác. Ðã đến lúc nên tiễn chũ nghĩa ngoại lai độc ác vô luân này ra khỏi đất nước Việt Nam mến yêu để mưu tìm hạnh phúc thật sự cho con người Việt Nam.
Hy vọng Việt Nam và Kampuchia sẽ không còn bạo chúa giết người như ngóe nữa và với tiến trình dân chủ sẽ bầu ra những nhà lãnh đạo nhân đạo biết thương dân như chính con đẻ của mình, biết đau cái đau của dân, vui cái vui của dân và biết chia bùi sẻ ngọt với đồng bào ruột thịt của mình.
Los Angeles, một chiều xám chì se lạnh giữa tháng 9 năm 2009
Trần viết Ðại Hưng
Email: dalatogo@yahoo.com
( Muốn đọc những bài khác của Trần viết Ðại Hưng, xin vào www.nsvietnam.com rồi bấm vài tên Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái.
Hay vào www.hungviet.org, bấm vào hàng chữ Nhân vật-tác giả nằm bên trái, rồi bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng)
TỘI ÁC CỦA VIỆT CỘNG ĐỐI VỚI DÂN TỘC
Gs. Nguyển văn Canh (15 tháng 4, năm 2000)
Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt nam (Việt Cộng hay VC) du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việtnam, rồi áp dụng chủ nghĩa này một cách trung thành, dùng mọi thủ thuật, với tham vọng là ép buộc dân tộc sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa trước khi đi đến mục tiêu cuối cùng là Cộng Sản Chủ Nghĩa.
Do sự chỉ đạo chặt chẽ của Lênin và Stalin, rồi Mao, VC nhất nhất từng bước thực hiện một cuộc cách mạng vô sản theo khuôn mẫu cuả quan thầy đề ra trên con đường tiến tới mục tiêu ấy, dù bằng bất cứ phương tiện nào, với bất cự giá nào, kể cả xương máu của dân Việt. Chính vì thế mà, dân tộc Việt phải trả một giá quá đắt trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng này.
Ở đây, tôi chỉ tổng kê một số những giá mà dân Việt phải trả trong cuộc cách mạng vô sản của VC hay khác đi cái gía đó chính là tội ác mà VC gây ra cho dân tộc.
Vậy tội ác của VC trong hai giai đoạn của cuộc cách mạng vô sản: Phá huỷ chế độ cũ và Xây dựng xã hội chủ nghĩa là gì ?.
TẠI MIỀN BẮC
I. GIAI ĐOẠN PHÁ HỦY: Trên đường tiến tới cướp quyền và nắm quyền lực.
A. Trong giai đoạn vận dụng chiếm chính quyền: Giai đoạn này được kể là từ suốt trong thời kỳ từ khi Việt Cộng hoạt động cho tới 1954. Giai đoạn này gồm 2 thời kỳ:
a) Từ đầu cho đến 1946 là thời kỳ tranh chấp Quốc - Cộng: VC lưà người quốc gia trong chiến lược liên minh, rồi bí mật thủ tiêu. Không ai biết rõ con số là bao nhiêu. Tuy nhiên có thể nói là hàng ngàn người, gồm các lãnh tụ đảng phái: Việt Quốc, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân, Đại Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Xã, Dân Xã Đảng và nhiều Đảng khác. Các lãnh tụ các tôn giáo cũng bị thủ tiêu trong giai đoạn này. Sự chém giết rất tàn bạo và tràn lan, khắp nơi từ thành thị đến nông thôn từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng lên miền núi.
b) Từ 1946 đến 1954 thời kỳ chiến tranh Việt - Pháp. Các lãnh tụ đảng phái tôn giáo còn sót lại là mục tiêu, cộng thêm các thành phần mà Việt cộng gọi là Tề Điệp Ác Ôn ở nông thôn. Đây là những người họặc công khai đứng về phiá Quốc gia cộng tác với Pháp chống lại VC, kể cả những người bất hợp tác với VC dù không công khai chống lại chúng. Không xã nào là không có người bị ám sát hay thủ tiêu. Con số nạn nhân loại này có thể lên tới hàng vạn.
Ngoài ra, hàng trăm ngàn thanh niên ưu tú của dân tộc phải nhập ngũ của mỗi bên đã bỏ mình trên trận địa hay bị thương trong cuộc chiến do VC phát động.
Trong giai đoạn này, nhiều di sản của dân tộc như đình chùa, miếu mạo, các cơ sở và nhiều tài liệu văn hoá bị VC tiêu huỷ.
B) Nắm quyền tại Bắc Việt: Khi mới tiến vào các thị trấn theo Hiệp Định Genève 1954, VC còn tỏ ra mềm dẻo, nên việc giết chóc không được ghi nhận tại Hà nội, Hải Phòng. Lý do là có thời gian 300 ngày cho những ai muốn di cư vào Nam vì những người ấy có thể trốn đi vào Nam.
Không biết rõ con số bị thủ tiêu ở các vùng xa xôi.
II. XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC TỪ 1954.
A) Các biện pháp chuẩn bị
1. Cải tạo công thuơng nghiệp: đánh tư sản mại bản, đánh tư sản dân tộc.
Các công, kỹ nghệ, thương gia và những ngưòi giầu có tại thành thị bị thanh toán. Tòan thể giai cấp này bị hoàn tòan loại ra khỏi xã hội: hoặc bị giết, hoặc bị đưa đi cải tạo dài hạn ở các vùng rừng núi xa xôi, gồm cả chương trình chỉ định định cư vĩnh viễn (lưu đầy). Tài sản của cải của họ, cùng với tài sản của các tôn giáo bị tước đoạt như nhà máy, kho tàng, phương tiện chuyên chở v.v., các cơ sở giáo dục, từ thiện xã hội của tư nhân, đình chùa miếu mạo, nhà thờ, chùa chiền và trở thành tài sản của Nhà Nước.
Các người bị gọi là trí thực, như giáo sư, luật sư, văn nghệ sĩ v.v. bị trấn áp, và tư tưởng của họ bị uốn nắn lại để thích ứng với tình thế mới: tiêu diệt hết tư tưởng của họ.
2. Cải cách ruộng đất. 5% nông dân bị thanh toán qua chương trình đấu tố: hoặc bị giết ngay tại đấu trường, hoặc bị đưa đi cải tạo dài hạn tại các vùng rừng núi do quyết định tại các phiên xử của Toà Án Nhân Dân. Gia đình của nạn nhân cũng bị loại ra khỏi xã hội. 5% của tổng số dân chúng Bắc Việt lúc đó là 14 triệu người hay là 700,000 người, trong số này, có 40,000 đã là đảng viên. Họ bị qui tội là thuộc 5 thành phần địa chủ sau: phản bội; phản động; gian ác bóc lột; địa chủ thường; và địa chủ thuộc thành phần khác (như trường hợp ông đồ nho); và về sau VC thiết lập loại thứ 6: địa chủ kháng chiến (vào thời kỳ sửa sai, để phục hoạt cho những người còn sống sót trong số 40,000 đảng viên ở trên (6)). Ruộng đất của họ bị tước đoạt và trở thành tài sản của nhà nước. Tổng số ruộng bị Đảng cướp là 4,188,851.60 sào tây (7). 800,000 người phải bỏ nhà cửa, chạy trốn, di cư vào Nam.

Dưới đây là các hình ảnh kinh hoàng “đấu tố-cải cách ruộng đất” Bắc Việt 1955
dưới chế độ Cộng sản Việt Nam
Hình chụp bởi Dmitri Baltermants ©, Nhiếp ảnh gia Liên-xô (1912-1990)


Sau màn đấu tố, "Địa chủ" liền bị "Tòa án nhân dân" bắn chết ngay tại chổ

B. Xây Dựng XHCN:
Các xí nghiệp quốc doanh ra đời và chính sách hợp tác hóạ nông nghiệp được thực hiện. Toàn thể dân chúng bị đặt trong vòng kiểm soát của Đảng theo chế độ công điểm: hưởng thụ theo khả năng. Mọi quyền tự do dân sự bị hạn chế. Giáo dục một thế hệ mới để trở thành công dân mới xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, tòan thể giá trị tinh thần, đạo đức truyền thống của dân tộc bị tiêu diệt.
Bạo lực là phương tiện chính yếu để đạt mục tiêu cuối cùng: xây dựng xã hội chủ nghĩa.

TẠI MIỀN NAM
I. GIAI ĐOẠN TIẾN CHIẾM QUYỀN HÀNH: 1954-1975
Không có con số chính thức về ám sát, bắt cóc, thủ tiêu các viên chức xã ấp, các nhân sĩ nông thôn kể từ khi bạo lực được sử dụng từ tháng 7 –năm 1959 là lúc chiến dịch Đồng Khởi bắt đầu tại Bến Tre cho đến 1975. Có ước lượng cho biết là con số này là 100,000 người.
Tắm máu trong dịp Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, với các mồ chôn tập thể là 4 đến 6,000 người. Có bằng chứng cho thấy nạn nhân bị chôn sống, hoặc chặt đầu bằng mã tấu, dùng báng súng hay vật cứng đánh vỡ sọ nạn nhân.
Ngoài thiệt hại nhân mạng ra, tài sản bị phá hủy không có cách nào biết hết được.
Tổng kết: 1.1 triệu thanh niên Miền Bắc bị đưa vào Miền Nam chiến đấu bị chết trên chiến trường, trong số này có 300,000 mất tích; và 600,000 bị thương (8). Con số dân chúng bị tàn phế: 3 triệu và 550,000 mù lòa .
Tại Miền Nam, Quân Đội Việt nam Cộng Hòa: 300,000 chết. Dân chúng: số người chết và bị thương từ 1965 tới 1973: 1,435,000 người, và từ 1973 đến 1975, số người chết là 339,882 và số tàn phế: hơn 80,000. Số người tị nạn trong nội địa vì chiến tranh là:10,260,000 người (10).
II. GIAI ĐOẠN CỦNG CỐ CHẾ ĐỘ VÀ XÂY DỰNG XHCN
Các tội ác gồm:
A) Giai đoạn chuẩn bị: Thanh toán các đối thủ để phòng ngừa chống đối:
1) Chém giết hàng loạt các thành phần có thể chống đối chế độ. Theo báo cáo của 2 học giả thuộc Đại Học Berkeley là Karl Jackson và Jacqueline Desbarats phổ biến vào năm 1985 (11), sau 3 năm điều tra, thì sự chém giết gồm cả thủ tiêu tức khắc hay xét xử cấp thời ngay trong lúc mới chiếm được chính quyền tối thiểu là 65,000 người. Trong số này có những vụ tàn sát tập thể như ở Phú Yên: 225 xác chôn trong một hố tại Lù Ba; 27 xác tại Hố Ngựa; 85 núi Thọ Vực. 6 xác tại Cập Xộp và 30 nạn nhân tại Cầu Dài. Có bằng chứng là các nạn nhân này bị chặt đầu, đâm vào ngực, đánh bể sọ, trói lại dìm xuống nước cho chết (12) v.v..
2) Tiêu diệt toàn bộ cái mà VC gọi là giới thống trị cũ.
a) Bắt đi cải táo: 500,000 (13) quân cán chính Việt nam Cộng Hòa và theo báo cáo của Aurora Foundation 1990 thì 15% tù cải tạo bị chết trong các trại cải tạo vì thiếu dinh dưỡng, bệnh tật, ngược đãi và hành quyết.
b) Loại trừ hết giới tư sản bằng các biện pháp trấn áp đối với thân thể. Các chuyên viên, trí thức cần thiết cho điều hành hay phát triển kinh tế, xã hội bị hoàn tòan thanh toán.
c) Cưỡng bách dân chúng đi vùng kinh tế mới.
B) Cải tạo tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa.
1) Các chương trình cải tạo công thương nghiệp: đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc y như đã xẩy ra tại Bắc Việt sau 1954 đã được áp dụng. Cướp đoạt tài sản của dân chúng qua các chương trình này. Máy móc, kho hàng, thuốc men, vàng bạc…. bị đánh cướp và chuyển ra Bắc. Các tài sản tư nhân, tôn giáo bị cưỡng đoạt. Nhà cưả của dân chúng bị tịch thu cho cán bộ đảng ở, còn các nạn nhân bị đuổi đi vùng kinh tế mới. Các biện pháp đổi tiền củng nhằm trong mục tiêu này. Rất nhiều chết chóc, tù đầy; gia đình bị phân tán.
2) Rồi Cải Cách Ruộng Đất cũng được thi hành tại Miền Nam. Tuy nhiên, chương trình vì này bị kháng cự mãnh liệt nên không đạt được mục tiêu là loại trừ hết giới địa chủ bằng biện pháp đấu tố rùng rợn như đã xẩy ra ở Bắc Việt trước đây.Về tài sản, ruộng đất củng đã lọt vào tay nhà nước.
Với các biện pháp này, chưa có con số thống kê về tổn thất nhân mạng.
C) Các tội ác khác:
1) Buôn bán tự do: Đàn áp và ngược đãi dân chúng, rồi tạo cơ hội cho phép một số người vượt biển. Bù lại, những kẻ ra đi phải nộp vàng, nhà cửa cho cán bộ Đảng. Nguyễn văn Linh, sau là Tổng Bí Thư Đảng, phụ trách công tác này tại Miền Nam, nộp vàng trực tiếp cho Uỷ Viên Chính Trị Bộ kiêm Bộ Trưởng Nội Vụ Trần quốc Hoàn, dưới sự chỉ đạo của 2 bộ Tài Chánh và Nội Vụ. Hai Bộ này ban hành lệnh trực tiếp cho các tỉnh Miền Nam. Đảng ủy địa phương điều đình khế ước với người đứng ra tổ chức vượt biển để xác định lộ trình. Mỗi hành khách ghi tên đi phải trả là 4 lượng vàng cho Trung ương. Đảng uỷ trung ương qua 2 Bộ trên chỉ đạo các chuyến đi “đăng ký chính thực” (14). Còn các phương cách vượt biển khác như “đi chui, mua bãi, đi bán chính thực” là do các tỉnh uỷ địa phương phụ trách (15). Số tiền thu cho việc buôn bán tự do này được ước tính là 115 triệu Mỹ kim vào 1978, tương đương với 2.5 tổng số lới tực quốc gia (16) năm đó.
Ngược đãi đối với dân chúng phối hợp với âm mưu bán tự do kiếm tiền, Đảng Cộng Sản đã là nguyên cớ thúc đẩy và đồng thời phát động phong trào cho dân chúng vượt biển. Hậu quả là khoảng trên 1 triệu người liều mạng vượt biển ra đi. Trong số này, theo một linh mục người Âu phụ trách tị nạn tại Nhật ước tính (1984) rằng độ 300,000 chết trên biển hay trên đường bộ. Thống kê của Phủ Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc cho biết từ 1977 đến cuối tháng 4, 1982 có 709,570 người tới được các trại tị nạn nằm rãi rác khắp nơi trên thế giới (17).
2) Vai trò thừa sai của VC thực hiện âm mưu bá chủ thế giới của Liên Sô. VC đóng vai trò tay sai của Liên Sô trong âm mưu bành trướng thế lực của Cộng sản thế giới nhằm tiến tới tòan cầu hóa Cộng sản. Khởi đầu từ việc đánh chiếm Cao Miên, rồi đe doạ Thái lan, tính tràn qua các quốc gia khác ở Đông Nam Á, rồi Nam Á, cùng với sự hỗ trợ cho Liên sô sử dụng Vịnh Cam Ranh để cho Hàng Không Mẫu hạm Minsk có thế tiến tới Ấn Độ Dương. VC lo yểm trợ cho mũi dùi quân đội Liên Sô tiến qua A phá Hãn, ngõ hầu kiểm soát kho dự trữ dầu cuả thề giới ở Vịnh Ba Tư. Rồi, Liên sô phải từ bỏ kế hoạch đó, vì thất bại. Việc đánh chiếm Miên không thành công. VC phải rút quân sau 10 năm chiếm đóng. Cái gía phải trả là 50,000 thanh niên Việt bỏ mạng tại đây. Tài nguyên quốc gia bị hao tốn, dù Liên sô viện trợ quân sự có năm nhiều nhất lên tới 1 tỉ Mỹ Kim cho thừa sai VC trong công tác này.
3) Vấn đề lãnh hải và lãnh thổ.

a) Sang nhượng Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng. Năm 1958 dưới sự chỉ đạo của Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng nhân danh Thủ tướng VC gửi văn thư cho Tổng Lý Sự Vụ Chu Ân Lai xác nhận quan điểm của Trung Cộng khi họ tuyên bố vùng lãnh hải gồm Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc quyền sở hữu của họ. Đến nay, Trung cộng đã chiếm trọn Hoàng Sa. Trung Cộng đã xây dựng trên đó phi trường, căn cự quân sự, hồ chưá nước ngọt cho quân trú phòng. Năm 1999, Trung Cộng thiết lập một dự án du lịch tại đây. Còn về Trường Sa, Trung cộng đã chiếm cả thẩy 8 đảo, và đã thiết lập bia đánh dấu chủ quyền trên một đảo là Đa Lạc. Phản ứng của Việt cộng về vấn đề lấn chiếm này chỉ có tính cách hình thức, làm mọi người thấy rằng đây là hành vi đồng lõa của tội phạm.
b) Không bảo vệ phần lãnh thổ phiá Bắc. Trên 36 địa điểm cháy dài khoảng 100 cây số trong tổng số 347 cây số thuộc đường ranh biên giới từ Lạng Sơn đã bi chiếm. Tổng số diện tích đất bị chiếm vào khoảng 80,000 hectares. Có nơi Trung cộng chiếm sâu vào nội địa Việt nam là 480 thước. Đồn quan thuế ở Ải Nam Quan đã di vào nội địa khoảng gần nửa cây số.
4) Phá rừng để làm tiền cho Đảng: Diện tích rừng đã giảm từ 44% xuống còn 24%, vì chặt cây làm củi đun bếp, lấy đất canh tác, đặc biệt là lấy gỗ xuất cảng, kiếm tiền. Sự tàn phá rừng nhiều đến nỗi Cơ Quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc phải nhẩy vào, viện trợ để trồng rừng trở lại vì sợ ảnh hưởng qúa lớn đối với môi sinh, nguy hại cho thế hệ mai sau. Trận lụt ở Thừa Thiên vừa qua gây thiệt hại nhiều nhân mạng và tài sản của dân chúng là bằng chứng về vụ tàn phá rừng của Đảng .
5) Xây dựng con người mới trong Xã Hội Chủ Nghĩa. Phá hủy hết mọi giá trị tinh thần đạo đức truyền thống dựa trên nền tảng nhân ái, hiếu hòa, lương thiện v.v. để đặt nền tảng cho công tác xây dựng con người mới với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Hậu quả của gần nửa thế kỷ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Bắc Việt và ¼ thế kỷ ở Nam Việt, con người truyền thống của dân Việt không còn nữa. Tôi không biết là cần bao nhiêu thập niên, bao nhiêu thế hệ mới có thể xây dựng lại được mẫu người Việt tốt đẹp truyền thống.
Tôi không kể đến những tội có tính cách luân lý như trường hợp Hồ chí Minh bán cụ Phan bội Châu cho mật thám của Pháp để làm tiền. Với nền đạo đức xã hội chủ nghĩa này mà hành vi họ Hồ làm biểu tượng được du nhập vào Việt nam, xã hội trở thành băng hoại.
* * *
Trong mấy năm gần đây, có một số người nhân danh đảng phái quốc gia vận động về hợp tác với VC bằng cách tham dự bầu cử do Việt cộng tổ chức, một số trí thức làm tay sai cho VC ở hải ngoại, một số con buôn hô hào về xây dựng đât nước nghèo khổ. Họ nhân danh dân tộc để làm công việc ấy. Những người ấy hoặc tự nguyện làm tay sai với hy vọng được hợp tác với VC, hoặc đã được VC nuôi dưỡng để làm công việc này. Những kẻ ấy thực sự là đồng loã của tội ác vì đã hay đang tiếp tay cho VC, giúp chúng tồn tại lâu hơn để tiếp tục bóc lột và đàn áp dân Việt. Họ đích thực là Ngụy Tị Nạn. Và ai củng biết là VC bây giờ chỉ còn cầm cự để tồn tại lâu chừng nào hay chừng ấy. Ngày ra đi của chúng không còn bao xa. Người Việt ở hải ngoại cần đề cao, cảnh giác đối với các âm mưu do Ngụy Tị Nạn này thực hiện và mai này đây những kẽ ấy sẻ bị dân tộc trừng phạt đích đáng.
Gs. Nguyễn văn Canh, Viện Hoover - trường Đại Học Stanford (10.09.2006)
Chú thích:
(1) RFI, Aug. 24, 2006
(2) BBC, Aug. 18, 2006
(3) RFI, Aug. 7, 2006
(4) RFI, Aug.20, 2006
(5) RFI, Aug. 1, 2006
(6) Nguyen van Canh “Nong Dan Bác Viet, nhung nam 1945-1970”, Center for Vietnamese Studies, San Jose, 1987, tr. 35-36
(7) -id- tr.19
(8) AP trích báo cáo của Bộ Cưu Chiến Binh, Lao Dong,Xa Hoi VC; San Jose Mercury News, 4 tháng 4,95. Buì ngoc Thanh: Bac Cong Xa Hoi: Mot van de trong chinh sach xa hoi”, Tap Chi Cong San, so 6 tháng 6, 1990, tr.55-59: liet ke con so thuong vong la hơn 1 trieäu.
(9) Xem Bui ngocc Thanh ghi o tren.
(10) Gloria Emerson “Winners and Loosers”, Random House, 1976
(11) Karl Jackson and Jacqueline Desbarats “ Research Among Vietnamese Refugees Reveals a Bloodbath”, The Wall Street Journal, April 4.1985, tr.23, and “Peacetime Bloodbath takes its toll on Vietnam,Too”, Los Angeles Times, May 1,1985 tr.11-13
(12) Nguyen van Canh “Việtnam Under Communism”, Hoover Press, 1983 tr.126-128.
(13) Mai chí Tho, Bo Truong Bo Noi Vu, tuyen bo voi AP, Aurora Foundation “Violations of Human Rights in the Socialist Republic of Vietnam, 1990, tr. 156.
(14) Paul Wilson “How Vietnam Profits From Human Traffic” FEER, 12 tháng 6,1979, tr.10
(15) Nguyen van Canh “Vietnam Under Communisn” Hoover Press,1983, tr. 128-130
(16) Guy Sacerdoti ”How Hanoi cashes In” FEER, 15 tháng 5, 1979, tr. 24
(17) Nguyễn văn Canh, -id- p.136
(18) Murray Hiebert “Travelling Trash: VN’s Environment Attack From All Quarters”, FEER, Feb. 3, 94 tr.21,24